Gần 15 năm kiên trì theo đuổi nghề nuôi lươn với nhiều thất bại, anh Giang đã gặt hái thành quả với công nghệ nuôi lươn nước chảy tràn trong bể không giá thể.
Cải tiến thành công mô hình nuôi lươn không giá thể trong bể xi măng, công nghệ nước xả tràn, anh Trần Tấn Giang (sinh năm 1977, ngụ ấp Phước Lợi, xã Phước Hội, huyện Đất Đỏ, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu) có doanh thu hơn 2 tỷ đồng mỗi năm.
Gần 15 năm quyết tâm theo nghề…
Công việc chính của anh Giang là nuôi gà công nghiệp, nhưng khi nghe vài người bạn giới thiệu về nuôi lươn trong bể có lợi nhuận cao, đặc biệt là không phải lo đầu ra, năm 2009 anh Giang tìm hiểu quy trình nuôi rồi xây 3 bể, tìm mua con giống về thả nuôi. Vì chưa có kinh nghiệm trong khâu chọn giống nên anh mua phải lươn đồng về nuôi, lươn không lớn, hao hụt dần, anh ngậm ngùi chấp nhận mất cả vốn và công chăm sóc.
Không từ bỏ đam mê, vừa nuôi gà tích lũy vốn, vừa tham khảo sách báo, tìm hiểu qua các trang mạng về quy trình nuôi lươn khép kín, mãi đến năm 2019, khi thấy lươn thương phẩm có giá cao (250 ngàn đồng/kg), lươn dễ bán, chỉ cần gọi điện là thương lái đến tận nơi thu mua, sẵn còn quỹ đất trống và số vốn dành được, anh Giang quyết định xây trại lươn hoàn chỉnh, thiết kế đầy đủ chức năng của một trại lươn gồm: Khu nuôi lươn bố mẹ; khu ương lươn bột; khu nuôi lươn thương phẩm; hệ thống bể lọc, bể lắng, bể cấp nước hoàn chỉnh.
Có bể nuôi, anh đặt lươn giống tại địa phương nhưng đợi mãi vẫn không có giống thả nên quyết định nhờ người quen mua 1 tấn lươn thương phẩm với giá 250 ngàn đồng/kg về nuôi với mục đích là chọn lọc lươn bố mẹ cho sinh sản nhân tạo, thu trứng ấp nở, ương nuôi lươn bột. Do chưa có nhiều kinh nghiệm trong việc quản lý chăm sóc, quy trình chưa phù hợp nên 1 tấn lươn thương phẩm cũng ra đi dần. Anh mất trắng 250 triệu đồng.
Lúc này, phong trào nuôi lươn ở miền Tây đang phát triển mạnh, đặc biệt là có nhiều cơ sở cung cấp lươn bột. Không chấp nhận thua cuộc, quyết tâm chinh phục quy trình nuôi lươn, anh nhờ người thân tìm mối đặt mua 60.000 con lươn bột (cỡ 45.000 con/kg) với giá 900 đồng/con về ương. Vừa làm vừa học qua bạn bè, xem tài liệu, cải tiến, áp dụng kỹ thuật mới, sau gần một năm kể từ ngày mua lươn bột về ương, anh đã có lươn giống, lươn thương phẩm cung cấp cho khách hàng và chọn được nguồn bố mẹ đạt chất lượng nuôi thành thục sinh dục cho sinh sản nhân tạo.
Trao đổi về kinh nghiệm nuôi lươn không giá thể, anh Giang cho biết: Bể nuôi dễ vệ sinh, không phải xịt rửa giá thể nên tiết kiệm nước; có thể theo dõi hoạt động bắt mồi và kiểm soát hoàn toàn mầm bệnh trên lươn, hạn chế bệnh nguyên sinh động vật ký sinh trong môi trường, trên mang lươn. Nếu không may lươn bị trầy xước thì bệnh lở loét cũng khó xảy ra.
Nói về công nghệ chảy tràn, anh Giang giải thích: Bể nuôi có mực nước thấp, thể tích nước ít, khi chảy tràn vừa tiết kiệm nước mà bể nuôi luôn trong sạch. Việc nước chảy tràn chỉ thực hiện vào ban đêm, điều chỉnh lượng nước vào ra liên tục trong 12 giờ, tương đương khoảng 200% nước trong bể nuôi, ban ngày thay nước 100% sau mỗi lần cho ăn.
Mỗi năm thu 20 tấn lươn thịt, doanh thu hơn 2 tỷ đồng
Hiện tại, cơ sở anh Giang có 50 bể nuôi lươn thịt, diện tích mỗi bể 5m2; 20 bể nuôi lươn bố mẹ có diện tích 25m2/bể cùng 100 khay ấp trứng và ương lươn bột. Hệ thống bể lắng và bể cấp tự chảy đủ cung cấp nước cho toàn trại lươn.
Về lươn sinh sản, anh Giang cho biết hiện tổng đàn bố mẹ khoảng 600kg. Trung bình khoảng 20 ngày thu trứng một lần. Trứng sau khi thu được cho vào khay hoặc bình vây (Weys) ấp có sục khí oxy. Để trứng đạt tỷ lệ nở cao, lươn bố mẹ khi thành thục sinh dục phải đảm bảo mực nước phù hợp, khi lươn làm tổ không được để đất sập che tổ, đảm bảo ánh sáng và âm thanh xung quanh khu vực. Đặc biệt, đàn lươn bố mẹ phải chọn lai xa không trùng huyết trước khi đem nuôi thành thục.
Trứng lươn tùy giai đoạn mà màu sắc chuyển dần từ màu trắng, vàng, vàng cam, nâu, đỏ, đỏ đậm. Nếu phân biệt trứng đúng màu khi đem ấp, tỷ lệ nở đạt 90%. Thời gian phôi trứng phát triển cho đến nở khoảng 7 ngày. Thời gian ương lươn bột đến lươn giống khoảng 80 – 90 ngày.
Đối với 50 bể nuôi lươn thịt, anh Giang thả nuôi theo hình thức cuốn chiếu. Mỗi tháng thả nuôi 5 bể. Mỗi bể thả trung bình 2.000 con lươn giống. Thức ăn nuôi lươn thịt là cám công nghiệp có độ đạm từ 40% trở lên, bổ sung thêm men tiêu hóa định kỳ để phòng bệnh đường ruột cho lươn. Sau 10 đến 12 tháng, lươn đạt cỡ 4 – 5 con/kg, gọi thương lái đến tiêu thụ.
“Hiện mỗi năm tôi thu hoạch khoảng 20 tấn lươn thịt, bán tại bể nuôi giá từ 110.000 – 120.000 đồng/kg. Doanh thu hơn 2 tỷ đồng/năm. Riêng lươn giống (size 500 con/kg), mỗi năm tôi cung ứng cho khách hàng trong tỉnh và các tỉnh Khánh Hòa, Ninh Thuận, Đồng Nai trung bình 400.000 con. Với giá từ 3.500 – 4.000 đồng/con tùy thời điểm, trừ chi phí thu lãi khoảng 280 triệu đồng. Ngoài ra, tôi còn tư vấn và chuyển giao kỹ thuật nuôi cho nhiều hộ dân trên địa bàn”, anh Giang chia sẻ thêm.